Từ vựng mới

You are currently viewing Từ vựng mới

SEMANTIC SATIATION

“Semantic satiation: A word loses its meaning and becomes a meaningless sound.” 

Đây là hiện tượng xuất hiện khi ta lặp đi lặp lại một từ hay cụm từ thì nó mất đi ý nghĩa với người nghe, và những gì người đó nhận được sẽ chỉ còn là những âm thanh vô nghĩa.

Mình có cảm giác này rất nhiều lần và từ rất lâu rồi khi còn bé nhưng không gọi tên được, và vì thế không chia sẻ được với ai. Gần đây, mình mới biết được tên gọi của nó qua series phim Ted Lasso và thấy “đã” vô cùng. Cái cảm giác kiểu có một từ để vịn vào và gọi tên cho cái mình cảm nhận được nhưng chưa từng gọi tên được trước đó.

Có lẽ cũng vì vậy mà mình rất thích từ điển hay bách khoa toàn thư. Khi mới bước chân vào nghề nghiên cứu, GS dạy mình có đưa cho một vài đoạn trích của cuốn bách khoa toàn thư về giáo dục khoa học để mấy nhà nghiên cứu lính mới tụi mình biết trong thế giới đó đã có gì. Và quả thật, từ điển hay bách khoa toàn thư là một nơi để mình biết những thứ mình không biết là mình không biết.

Mình đi dạy chính thức được 3 năm. Nếu tính cả những trải nghiệm dạy học không chính thống (informal teaching) trước đó thì nhiều hơn 3 năm. Trong 6 năm tổng cộng đó mình chủ yếu tiếp xúc với đối tượng trẻ em tiểu học và cấp 3.

Hồi đi thực tập, mình rất quan trọng vai trò của việc giảng dạy. Mình nghĩ trách nhiệm của giáo viên là phải giảng làm sao cho học sinh hiểu thì thôi. Nếu học sinh không hiểu thì chỉ có thể do hai khả năng: hoặc là lỗi tại mình, mình không có năng khiếu sư phạm, hoặc là lỗi tại học sinh, học sinh không thông minh, không phù hợp để học môn này. Hoặc, tạm gọi là học sinh dốt. Ý semantic satiation. Dốt dốt dốt dốt dốt. Rồi mình bị mất ý nghĩa của từ này trong đầu :))

Dần dần, khi học khoá Khơi nguồn sáng tạo do cô Lan cùng cô Uyên, cô Quý, thầy Trung tổ chức thì mình biết tới Thuyết Đa trí tuệ. Thuyết này cung cấp một loạt từ vựng mới để mình có thể gọi tên và xu hướng học tập của học sinh. À mình không nói thuyết này tuyệt đối “đúng”, nhưng nó cung cấp một góc nhìn rất nhân văn và mới so với những gì mình được nghe ra rả ra rả. Từ đó thì thì từ “dốt” không còn trong từ điển của mình nữa. Mình từ chối dùng nó.

Cám ơn Khơi nguồn sáng tạo.

XÂY DỰNG KIẾN THỨC

Trở lại việc dạy và quan điểm của mình hồi đó rằng trách nhiệm giáo viên là phải “dạy” cho học sinh hiểu. Nhưng trong cuốn bách khoa toàn thư nói trên, mình được giới thiệu về cụm từ Knowledge Building. Trong quan điểm này, học sinh sẽ tham gia đóng góp ý tưởng của chúng vào một không gian chung để xây dựng kiến thức chung cùng với lớp. Nếu học sinh không phải đơn thuần tiếp nhận kiến thức từ giáo viên, mà trách nhiệm xây dựng kiến thức để “hiểu” đó cũng thuộc về học sinh thì sao? Nếu học sinh được tham gia vào quá trình xây dựng kiến thức đó thì sao?

Hai đặc trưng của Knowledge Building là học sinh co-construct kiến thức chung với những học sinh khác dựa trên hội thoại và thảo luận. Và đặc trưng thứ hai là Problem Solving (giải quyết vấn đề) VÀ Argumentation (tranh biện). Ngoài problem solving mình đã thấy phổ biến ở Việt Nam ra, học sinh học khoa học cần có cơ hội tranh biện dựa trên bằng chứng nữa.

Sau này, khi đọc một số nghiên cứu so sánh giữa giáo viên Á và giáo viên Âu/Úc, mình nhìn thấy một sự khác biệt. Đó là giáo viên Á nói và hỏi nhiều với những câu hỏi nhỏ – ngắn. Nhiều câu hỏi dẫn dắt dày và học sinh trả lời hoặc là Yes/No hoặc là trả lời đồng thanh từ khoá. Ngoài ra, với một đơn vị kiến thức, giáo viên Á dùng nhiều cách khác nhau làm mô hình để mô tả cho học sinh hiểu.

Ngược lại, giáo viên Âu/Úc thì có những câu hỏi mở, dài, chừa chỗ cho học sinh nói nhiều hơn. Thậm chí một nét đặc trưng ở lớp học khoa học ở Úc là carpet time nơi học sinh cả lớp ngồi xuống thảm sàn, quây quần bên giáo viên để thảo luận và trao đổi về ý tưởng với nhau. Trách nhiệm xây dựng kiến thức đã được trao cho cả học sinh nữa. Tất nhiên là không có cách nào đúng hoặc sai, nhưng nó cho thấy mình có nhiều lựa chọn. Và trách nhiệm của mình, là một giáo viên, không hẳn là cố gắng xoay sở để đặt kiến thức vào đầu học sinh nữa. Học sinh cũng cần được trao cơ hội và trách nhiệm để xây dựng nó.

Hay một quan điểm dạy học khác mà mình rất thích là Knowledge Integration, tích hợp kiến thức. Kiến thức ở đây không phải là kiến thức các môn Toán Lý Hoá cộng lại với nhau mà là kiến thức sẵn có của học sinh. Hồi trước, mình hay dạy theo kiểu “bài nè học đi”. Kể cả những ví dụ, những tình huống thì mình cũng chọn những ví dụ mà mình nghĩ học sinh sẽ thích và sẽ gần gũi với các bạn ý. Tức là đều từ phía mình – giáo viên. Nhưng theo quan điểm KI thì khác.

Thời lượng học khoa học trên lớp chỉ chiếm một phần nhỏ trong quãng đời đi học, và thậm chí còn ít hơn nếu so sánh với cuộc sống ngoài cổng trường. Học sinh trước khi vào lớp đã mang “trong balo” một đống kiến thức khoa học “hỗn độn” từ những nguồn bên ngoài (gia đình, hàng xóm, xã hội, TV, YouTube, Facebook, …) và cả bên trong học sinh. KI coi trọng kiến thức có sẵn đó của học sinh về một vấn đề. Học sinh sẽ được động viên nêu ra ý kiến của chúng về vấn đề đó. Rồi khi giáo viên đưa ra kiến thức mới, học sinh sẽ được phân biệt giữa hai kiến thức đó và chọn ra kiến thức cho mình. Tóm lại, Knowledge Integration giành nhiều không – thời gian cho học sinh phản tư.

ĐỂ HỌC SINH “LÀ”

Rồi mình trở thành một giáo viên tiểu học dù không được đào tạo để dạy tiểu học. Hồi đó, mình thấy học sinh mình … ngộ lắm. Mấy bạn không ngồi yên. Không bạn nào ngồi yên. Và mình học điều đó the hard ways luôn. Mình tìm mọi cách để giữ học sinh giữ trật tự. Nào giơ tay kí hiệu. Nào đứng im lặng. Nào sử dụng chuông. Gõ bảng. Thậm chí là nổi cáu và to tiếng trong kiểm soát của mình với mục đích để học sinh chú ý. Những cách đó đều không ổn hoặc không tồn tại lâu. Mình bối rối và bất lực nhiều. Mình nghĩ là nhiệm vụ của mình là dạy, và học sinh có nhiệm vụ học cái mình dạy chứ!

Rồi có lần mình đi tới Toa Tàu và được nghe anh Bút Chì kể triết lý về LÀ – Being của ảnh. Rằng thử để cho bọn trẻ nó LÀ tụi nó đi. Thử đừng ép, thử đứng lùi lại và quan sát tụi nó. Rồi mình đọc nhiều sách của Ken Robinson, Krishnamurti, Montessori hay Giáo dục Mới. Từ đó, mình dần dần thả lỏng hơn. Cảm giác nhẹ nhõm hơn nhiều. Mình không nhất nhất học sinh phải ngồi ở ghế. Học sinh có thể ngồi lên bàn, đứng lên bàn, quỳ dưới sàn, làm bài 3 thay vì bài 1, thực hiện thí nghiệm đo đạc những gì tụi nó muốn đo. Miễn là tụi nó đo. Và nếu tụi nó không đo, tụi nó có thể ngồi giúp bạn ghi số đo. Và mình thấy chính mình cũng dễ thở. Tất nhiên, cũng có nhiều trường hợp rất rất rất khó để phối hợp cùng, em chỉ còn cách quan sát và học dần dần.

CHĂM SÓC GIÁO VIÊN

Sau này, khi trở thành head-teachers, phụ trách quản lý và hỗ trợ phát triển chuyên môn cho giáo viên mới, mình nhìn thấy nhiều bạn Hải cách đó vài năm, nhiều bất lực và bối rối tương tự. Bây giờ sau hơn 2 năm tạm ngừng làm giáo viên, nhiều bạn giáo viên mới của mình vẫn đi dạy, cũng nhiều bạn đã không còn là giáo viên nữa. Lên Facebook thấy các bạn giáo viên ngày nào của mình chuyển sang những nghề khác và còn chia sẻ nhiệt tình về nghề đó hơn hồi xưa, mình vừa vui vừa buồn.

Mình rất cổ vũ cho tư duy cầu tiến (growth mindset) và chuyện định đoạt số mệnh của mình là do mình. Nhưng mình không nghĩ tất cả đều phụ thuộc vào chính bản thân của người giáo viên để bám trụ với nghề. Chuyện yêu nghề, yêu học sinh, chuyện bản lĩnh tự thân, những điều này rất quan trọng. Nhưng nó không chỉ có vậy.

Khi qua Taiwan, trong một chương trình trao đổi về phát triển bền vững, mình được giới thiệu một mô hình trường thực nghiệm và dựa trên cộng đồng (community-based). Nó được xây dựng ở một trường học cá biệt, với mục tiêu là nhà trường là trung tâm, phụ huynh và cộng đồng chung quanh trường sẽ được thúc đẩy để cùng với học sinh trong trường tham gia những hoạt động đóng góp cho chính cộng đồng tại đó. Sau một thời gian thì chương trình đã đạt được kết quả thật sự lạc quan. 

Trong cuốn Creative Schools, Sir Ken Robinson cho rằng ngoài lỗi cá nhân, chúng ta hay quên đi sự tồn tại của lỗi hệ thống – một từ vựng mới nữa. Nếu đi giày mà đau chân, chúng ta không thể đổ lỗi cho chân mình, mà cái ta cần làm là thay giày. Nếu một hệ thống không hoạt động tốt, ta không thể chỉ đổ lỗi cho người bên trong được. Ta cần làm việc với họ và thay đổi hệ thống. Giáo viên rất cần được lắng nghe và hỗ trợ phát triển trong và ngoài chuyên môn bởi những hệ thống mà họ tham gia. Ngoài chuyện cựa quậy ở bên trong thực tế đang có, ta có thể tạo áp lực để thay đổi luật lệ, nội quy, chính sách nữa. Ngoài tiền ra, những phương án khả dĩ mà một hệ thống có thể làm như giảm administration tasks, giảm sĩ số, tăng cường tập huấn, tạo không khí học tập, yêu cầu gia đình hợp tác, … vân vân… cũng đáng được nhìn nhận, nghiên cứu và thực hiện.

Hiện tại, ngoài nghiên cứu, mình cũng làm một công việc mình tạm gọi là Teacher Service – Chăm sóc Giáo viên.  Giống như Customer Service – Chăm sóc Khách hàng. Mình nghĩ cái căn bản của việc giáo dục là hỗ trợ việc học của học sinh. Giáo viên là người gần nhất có thể làm tốt nhất chuyện đó. Và mình muốn hỗ trợ họ làm việc của họ.

Cám ơn cô Lan cùng Ban Tổ chức chương trình Tâm tình chuyện nghề đã mời mình và các Quý Thầy Cô có một buổi nói chuyện thân mật. Cũng 2 năm rồi mình chưa được đón 20-11, bên này ngày cho Giáo viên khác với ở Việt Nam. Nên nhờ có chương trình này mà mình mới được thưởng thức không khí Ngày Nhà giáo. Dù Đài Bắc đang lạnh nhưng mình vẫn cảm thấy ấm áp. Mọi người đang làm rất xịn vai trò Teacher Service của mình.

TỪ VỰNG MỚI

Trong cuốn sách Why Learn History, Sam Wineburg mô tả về sự nghèo nàn ý tưởng trong một lớp học lịch sử truyền thống rằng “When we say “kids can’t,” what we’re really saying is “we can’t.”” Khi chúng ta đang nói “trẻ không thể”, cái chúng ta đang thật sự nói là “chúng ta không thể”.

Mình muốn kết thúc câu chuyện của mình bằng lời chúc:
Chúc Quý Thầy Cô có dồi dào từ vựng để nói về đúng cái chúng ta cần nói.

The Too Blue Scientist

Leave a Reply